Chilo partellus
Sâu bọ
5 mins to read
Các triệu chứng nêu trên xuất hiện trên nụ hoa, hoa và quả. Trong giai đoạn cây nở hoa, xuất hiện các màng tơ bao phủ lá, hoa và quả. xen lẫn với phân của ấu trùng. Các chồi và nụ mới có triệu chứng khô đi. Ấu trùng sâu đục lỗ và ăn hạt trong quả. Chúng cũng đục cuống lá và khiến cành nhánh khô héo.
Loài sâu đốm đục quả này có thể bị khống chế bởi các loài thiên địch của chúng. Các loài ruồi ký sinh (họ Tachinidae) và ong ký sinh (Braconidae & Ichneumonidae) có khả năng khống chế số lượng quần thể của loài sâu hại này. Kết hợp với các loài ăn thịt (bọ cánh gân, bọ rùa, nhện, kiến đỏ, chuồn chuồn, ruồi ăn sâu, bọ sát thủ và bọ ngựa), các loài thiên địch ấy có thể giảm thiểu thiệt hại do sâu đốm đục quả gây ra đến mức 98%. Đối với các loại thuốc trừ sâu dạng sinh học, dầu sầu đâu gốc EC chứa hoạt chất azadirachtin hay vi khuẩn Bacillus thuringiensis có thể được sử dụng dưới dạng phun trên lá. Nên sử dụng các sản phẩm ấy ở đầu giai đoạn nở hoa cho đến khi thu hoạch. Dầu sầu đâu hay các sản phẩm thuốc trừ sâu chứa vi khuẩn Bacillus Thuringienisis (BT) chỉ nên sử dụng một lần vào thời điểm bắt đầu mùa vụ hoặc ngay khi phát hiện ra các triệu chứng nhiễm sâu đốm đục quả đậu.
Trong mọi trường hợp, hãy xem xét đến khả năng vận dụng các biện pháp phòng ngừa và xử lý sinh học trong phạm vi có thể thực hiện được. Có thể sử dụng các loại thuốc trừ sâu ngấm qua rễ hoặc dạng tiếp xúc khi phát hiện số lượng sâu đốm đục quả vượt quá 3 ấu trùng/mét vuông để đảm bảo giới hạn về mặt kinh tế. Hãy chọn các hóa chất một cách cẩn thận để không phá vỡ số lượng quần thể của các loài côn trùng có lợi. Sử dụng các loại thuốc trừ sâu ngấm qua rễ hoặc dạng tiếp xúc như azadirachtin (1500 ppm) với liều lượng 5 ml/lít khi sâu hại bắt đầu tấn công cây trồng. Các loại thuốc trừ sâu khác có gốc chlorantraniliprole 18.5 EC (0.3 ml/lít), chlorpyrifos 20 EC (2 ml/lít), profenophos 50 EC (2 ml/lít), Spinosad 45 SC (0.3 ml/lít), Emamectin benzoate + lambda-cyhalothrin 5 EC hoặc flubendiamide 39.35 SC (0.2 ml/lít) cũng có hiệu quả khống chế loài sâu hại này.
Các thiệt hại nêu trên xuất phát từ ấu trùng của loài sâu đục quả các cây họ Đậu, có tên khoa học là Maruca vitrata. Bướm trưởng thành có những dải màu trắng tương phản trên hai cánh trước sẫm màu, hai cánh sau màu trắng có đường viền sẫm màu. Con cái đẻ trứng đơn lẻ hoặc từng đám trứng nhỏ trên lá, nụ hoa và hoa. Ấu trùng màu trắng hơi xanh, có đốm và đầu màu nâu với những sợi lông ngắn sẫm màu ở các bướu đen trên thân. Chúng phát triển thành nhộng trong đất hay trong các mạng tơ bọc quanh lá. Ấu trùng sâu kiếm ăn vào ban đêm, tấn công thân, cuống hoa, cuống quả, hoa và quả của nhiều loài cây ký chủ khác nhau như đậu Thổ Nhĩ Kỳ, đậu ván, lạc, thuốc lá, bông vải, đậu tương, mè, mía, thầu dầu, dâm bụt và các loài cây hoang dã khác. Sau khi cuộn và bao lá bằng mạng tơ, ấu trùng tiếp tục kiếm ăn bên trong mạng. Quá trình nhiễm sâu diễn ra ở giai đoạn cây con cho đến khi cây hình thành quả. Nhiệt độ thích hợp để loài sâu hại này phát triển là 20 - 28°C. Tổn thất thu hoạch do loài sâu đốm đục quả đậu này ước tính lên đến 20-50%.