Pyrenophora tritici-repentis
Nấm
Các triệu chứng có thể là hoại tử hoặc úa hoặc cả hai trên lá. Đầu tiên xuất hiện các vết đốm màu nâu, hoại tử ở mặt trên và mặt dưới của lá. Sau đó, chúng lan rộng thành các vết bệnh có hình thấu kính, màu nâu vàng với các đường viền màu vàng hoặc xanh nhạt với kích thước thay đổi. Trung tâm vết bệnh có thể khô lại và chuyển sang màu xám. Trong môi trường độ ẩm cao, lá ẩm, vết bệnh có phần trung tâm sẫm màu. Các đốm ban đầu có thể liên kết lại thành các mảng lớn. Điều này dẫn đến chết lá và rụng lá. Tác nhân gây bệnh này có thể gây ra màu hồng hoặc đỏ của hạt (vết ố đỏ) hoặc kết hợp với các loại nấm khác, làm đổi thành màu đen. Tuy nhiên, mày hạt không bị ảnh hưởng.
Bón phân cân đối để thúc đẩy quá trình định cư của các vi sinh vật đối kháng trong đất. Các sinh vật như nấm Alternaria Alternata, Fusarium pallidoroseum, Acinetobacter calcoaceticus, Serratia liquefaciens, và nấm men trắng cạnh tranh với nấm đốm nâu và giảm sự xuất hiện của nó một cách thỏa đáng.
Nếu có thể hãy luôn xem xét sử dụng phương thức kết hợp các biện pháp phòng ngừa với các biện pháp xử lý sinh học. Các loại thuốc diệt nấm phun qua lá chứa pyraclostrobin, picoxystrobin, propiconazole và prothioconazole đã cho thấy hiệu quả cao chống lại bệnh đốm nâu.
Các triệu chứng là do nấm Pyrenophora tritici -nanceis gây ra. Trong suốt mùa đông, nó tồn tại trên rơm lúa mì hoặc trên hạt. Bào tử được hình thành và giải phóng sau khi trưởng thành vào mùa xuân, và phân tán nhờ gió và nước bắn. Do kích thước lớn nên chúng chỉ phân tán trên một khoảng cách ngắn. Chúng lây nhiễm các lá phía dưới, nơi chúng phát triển và tạo ra các bào tử khác làm lây lan bệnh cho các lá phía trên và cho các cây khác. Các triệu chứng hoại tử và úa vàng ở cây xuất hiện do sự sản sinh chất độc của nấm, một quá trình phụ thuộc một phần vào ánh sáng. Sản sinh bào tử thuận lợi khi độ ẩm trên 95%. Lây nhiễm thứ cấp diễn ra khi lá ẩm ướt, độ ẩm tương đối cao và nhiệt độ trên 10°C trong 2 ngày. Nhiệt độ tối ưu cho lây lan bệnh đốm nâu là 20-25 độ.